Thứ Hai, 27 tháng 7, 2015

Chế độ đãi ngộ người nước ngoài

     Trong pháp luật, phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa các quốc gia và tùy thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, các quy định  và đia vị pháp lý của người nước ngoài (kể cả các pháp nhân nước ngoài) có thể được xây dựng trên nguyên tắc hay các chế độ pháp lý sau: Chế đội đãi ngộ như công dân; chế độ tối huệ quốc; chế độ đãi ngộ đặc biệt; chế độ có đi có lại và chế độ báo phục quốc.

 Chế đô đãi ngộ như công dân (National Treatment)

     Chế độ đãi ngộ như công dân hiện nay được thể hiện phổ biến trong luật pháp của đông đảo các quốc gia trên thế giới. Nôi dung cơ bản của chế độ này đươc hiểu như sau:   v

 - Người nước ngoài đươc hưởng các quyền dân sự và lao động, cũng như thực hiện các nghĩa vụ ngang hoặc tương đương với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng và sẽ được hưởng trong tương lai (trừ những ngoại lệ theo pháp luật quy định trong các trường hợp cụ thể).

Chế độ đãi ngộ người nước ngoài

- Trên thực tế, luật pháp của các nước dành riêng cho người nước ngoài được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân của họ không phải ở tất cả mọi mặt mà bao giờ cũng còn những hạn chế (dù ít, dù nhiều) nhất định đối với người nước ngoài. Vị dụ: các quyền chính trị như quyền bầu cử, quyền ứng cứ, bầu cử hầu như không dược hưởng; quyền cư trú bị hạn chế; quyền hành nghề học tập cũng bị những giới hạn nhất định v.v…

     Chế độ đãi ngộ như công dân dành cho người nước ngoài thường được quy dịnh trước hết là trong luật pháp các nước. Ở Việt Nam, theo Quyết định số 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam tại Điều 7 và Điều 8 quy định rằng; Người nước ngoài định cư ở Việt Nam được hưởng chế độ đãi ngộ như công dân đối với sở hữu cá nhân về thu nhập hợp pháp và tư liệu sinh hoạt và các quan hệ thừa kế đối với các tài sản trên.

     Ngoài ra, chế độ đãi ngộ như công dân còn được ghi nhận trong các điều ước quốc tế song phương và đa phương như là các nguyên tắc pháp luật quốc tế nhằm bảo hộ pháp lý cho công dân các nước hữu quan làm ăn, sinh sống trên lãnh thổ của nhau. Ví dụ: Trong Hiệp định tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự, gia đình, hình sự giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hòa nhân dân Bungari quy định tại khoản 1 Điều 1 như sau; “Công dân nước ký kết này được hưởng trên lãnh thổ nước ký kết kia sự bảo hộ pháp lý về các quyền nhân thân và tài sản mà nước kỷ kết kia dành cho công dân nước mình” (Hiệp định ký kết ngày 03/104986). Đối với các điều ước quốc tế đa phương phải kể đến các công ước quốc tế về sở hữu trí tuệ. Đó là Công ước Becnơ 1886, Công ước Giơnevơ 1952 về bảo hộ quyền tác giả; Công ước Pari 1883 về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, mà nội dung cơ bản của các công ước này đều lấy nguyên tắc đãi ngộ như công dân làm nền tảng bảo hộ trên cơ sở có đi có lại.


Đọc thêm tại:

Năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người nước ngoài

Giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của người nước ngoài

     Người nước ngoài là một trong những chủ thể cơ bản của Tư pháp quốc tế. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi là hai thuộc tính cơ bản của chủ thể pháp luật. Chính vì thế, khi tìm hiểu địa vị pháp lý của người nước ngoài, không thể bỏ qua việc giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi trong quan hộ Tư pháp quốc tế.

     Trong thực tiễn pháp luật của các nước hiện nay các khái niệm về năng lực pháp luật và năng lực hành vi được hiểu rất khác nhau và dẫn đến việc quy định trong pháp luật cũng khác nhau. Theo các hệ thống pháp luật của các nước châu Âu lục địa, mà tiêu biểu có thể kể đến là Pháp chẳng hạn thì cả hai khái niệm trên được hiểu là “Năng lực pháp luật nói chung”(Capacité Jouissance) và năng lực thực hiện nghĩa vụ (Capacité d’exercice). Theo hệ thống luật pháp Anh – Mỹ (Common Law) thì năng lực chủ thể (Capacity) bao gồm năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

     Hiện nay, trong khoa học pháp lý của Việt Nam cũng như một số nước, năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của người đó được hưởng các quyền và gánh vác nghĩa vụ mà theo pháp luật quy định; còn năng lực hành vi của cá nhân là khả năng của chính người đó bằng các hành vi của mình thực hiện các quyền và gánh vác nghĩa vụ theo pháp luật quy định (xem Điều 14 và 17 Bộ luật dân sự Việt Nam).

Năng lực pháp luật

     Năng lực pháp luật và năng lực hành vi quy định quyền năng chủ thể của một thực thể khi nó tham gia vào các quan hệ pháp luật nhất định.

     Để giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật dân sự của công dân nước ngoài, luật pháp các nước thường quy định người nước ngoài có năng lực pháp luật ngang hoặc tương đương với công dân nước sở tại (trừ những ngoại lệ quy định trong các hệ thống luật cụ thể của mỗi quốc gia hoặc trong các điều ước quốc tế), còn giải quyết xung đột pháp luật về năng lực hành vi thì đại đa số luật pháp các nước áp dụng nguyên tắc luật quốc tịch (Lex patriae), riêng hệ thống luật Anh – Mỹ (Common law) lại áp dụng nguyên tắc luật nơi cư trú (Lex domicille).

     Hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay, Điều 761 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định: Người nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam (trừ các trường hợp ngoại lệ); và Điều 762 quy định: Năng lực hành vi dân sự của người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó là công dân (trừ các trường hợp ngoại lệ), nếu thực hiện, xác lập các hành vi dân sự tại Việt Nam thì xác định theo luật Việt Nam. Trong các hiệp định tương trợ tư pháp về dân sự… của Việt Nam với nước ngoài cũng ghi nhận cách giải quyết tương tự như trên.



Khái niệm người nước ngoài

     Trong sự phát triển khách quan lịch sử của cộng đồng các quốc gia trên thế giới, công dân nước này, nước kia cùng chung sống trên lãnh thổ của một quốc gia do những nguyên nhân khác nhau. Đó là:

- Do chiến tranh dẫn đến việc di cư ồ ạt;

- Do việc chia, tách lãnh thổ quốc gia;

- Do hậu quả của thiên tai (động đất, núi lửa);

- Do thay đổi chế độ chính trị – kinh tế;

- Và cuối cùng là quá trình hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật, giao lưu văn hóa giữa các nước và các nguyên nhân khác nữa…

      Như vậy, việc công dân của các nước khác nhau sống cùng công dân nước sở tại trong lãnh thổ của một quốc gia là một hiện thực khách quan. Việc nghiên cứu quy chế pháp lý của công dân nước ngoài không thể không tìm hiểu sâu khái niệm “người nước ngoài” đã được hình thành trong khoa học pháp lý ở nước ngoài và ở nước ta.

     Hiện nay. thuật ngữ “người nước ngoài” được sử dụng rộng rãi ở các nước cũng như ở Việt Nam và nó được hiểu rất rộng, hao hàm như sau:

- Người mang một quốc tịch nước ngoài;

- Người mang nhiều quốc tịch nước ngoài;

- Người không mang quốc tịch nước nào (gọi tắt là người không quốc tịch).

Khái niệm người nước ngoài

     Ngoài ra, thuật ngữ “người nước ngoài” còn được hiểu là công dân nước ngoài. Trong pháp luật của nhiều nước trên thế giới, có một nét đặc trưng chung nhất là đều lấy dấu hiệu quốc tịch để định nghĩa người nước ngoài. Chế định quốc tịch được nghiên cứu sâu trong khoa học pháp lý không chỉ có ý nghĩa lớn trong Công pháp quốc tế (về dân cư) mà còn có ý nghĩa không nhỏ trong Tư pháp quốc tế (về người nước ngoài) và trong các ngành khoa học pháp lý khác.

     Người nước ngoài là người không có quốc tịch của nước nơi mà họ dạng cư trú. Phân tích khái niệm trên ta thấy bất kỳ một cá nhân nào cư trú trên lãnh thổ một nước nhất định mà không mang quốc tịch của quốc gia đó đều là người nước ngoài. Quốc tịch luôn là căn cứ để xác định người đó là công dân nước nào hoặc là người không thuộc công dân nước nào (người không quốc tịch). Quốc tịch luôn luôn thuộc quy chế nhân thân của con người.

     Khái niệm người nước ngoài hiểu theo nghĩa rộng trong một so văn bản pháp quy không chỉ dùng để chỉ thể nhân nước ngoài, mà còn dùng để chỉ pháp nhân nước ngoài, đôi khi còn để chỉ cả quốc gia nước ngoài nữa, Người nước ngoài theo nghĩa hẹp chỉ dùng để hiểu đó là công dân nước ngoài (hay thế nhân nước ngoài) hoặc thậm chí cả người không quốc tịch. Có thể nói cách hiểu như trên chỉ mang tính chất quy ước.

     Trong Quyết dịnh sô 122/CP ngày 25/4/1977 của Hội đồng Chính phủ về chính sách đối với người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống ở Việt Nam quy định tại Điều 1 như sau: “Người nước ngoài gọi tắt là ngoại kiề  là những người cư trú và làm ăn sinh sống ở Viêt Nam, có quốc tich nước khác,hoăc không có quốc tich“,4J4

     Quyết định trên chỉ áp dụng đối với những người nước ngoài cư trú và làm ăn sinh sống Việt Nam. Ngoài ra, theo Điều 1, Điều 5 Luật quốc tịch Việt Nam ngày 28/6/1998 và khoản 1 Điều 1 Pháp lệnh nhập cảnh và xuất cảnh cư trú, đi lại của người nước ngoài tại Việt Nam năm 2000; khoản 2 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 quy định chi tiết thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài, “Người nước ngoài” được hiểu là người không có quốc tịch Việt Nam. Phân tích nội dung khái niệm ở các luật và pháp lệnh trên ta thấy:

- Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam. Vậy, họ có thể là người có quốc tịch một nước khác, một vài nước khác hoặc không mang quốc tịch nước nào.

- Người nước ngoài có thể cư trú trên lãnh thổ Việt Nam và cũng có thể cư trú ngoài lãnh thổ Việt Nam.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: tu phap quoc te, giải quyết xung đột

Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015

Vấn đề có đi có lại trong việc áp dụng luật nước ngoài

     Vấn đề có đi có lại trong quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia là nhu cầu thực tiễn khách quan và là động lực thúc đẩy sự liên kết kinh tế cũng như bảo đảm sự ổn định cho một trật tự pháp lý trên thế giói. Nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia bao giờ cũng được thể hiện trong quan hệ có đi có lại giữa chúng và ngược lại trên cơ sở có đi có lại mói thể hiện sự bình đẳng giữa các quốc gia.

     Nguyên tắc có đi có lại được ghi nhận trong luật pháp của đại đa số các nước trên thế giới, cũng như được thể hiện trong rất nhiều Điều ước quốc tế (cả Điều ước song phương và đa phương).

     Ví dụ:khoản 1 Điều 1 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam với Liên bang Nga ghi: “Công dân của bên ký kết này được hưởng trên lãnh thổ của bên ký kết kia sự bảo vệ pháp lý đối với nhân thân và tài sản như công dân của bên ký kết kia”.

     Nhưng trong lý luận và thực tiễn Tư pháp quốc tế của các nước thì phần lớn đều thừa nhận việc thi hành các quy phạm xung đột không bị giói hạn (hạn chế) bởi các quy định của nguyên tắc có đi có lại. Điều này có nghĩa là khi cơ quan tư pháp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền nào đó vận dụng luật nước ngoài để giải quyết vụ việc sẽ không cần thiết phải xem xét là ở nước ngoài đó có áp dụng luật pháp của nước mình chưa.

việc áp dụng luật nước ngoài

     Lý giải vấn đề này có thể hiểu như sau: Việc áp dụng luật nước ngoài là nhu cầu tất yếu khách quan để giải quyết các quan hệ dân sự quốc tế trong sự phối kết hợp của hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật mà tất cả đều thừa nhận là giữa các hệ thống pháp luật đó đều bình đẳng đối với nhau.

     Các nước đều quy định trong pháp luật của mình việc cho phép áp dụng luật nước ngoài là dựa trên cơ sở nguyên tắc tự nguyện được thể hiện rõ ngay khi ban hành hoặc thông qua một văn bản pháp quy nào đó (việc này không hề có sự ép buộc từ bất cứ quốc gia bên ngoài nào).

     Tòa án khi giải quyết các vụ việc dân sự quốc tế, dựa trên các quy phạm xung đột để cho phép áp dụng luật nước ngoài là để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các bên đương sự, chứ không hề gây thiệt hại cho các bên đương sự và cũng không phương hại đến chủ quyền quốc gia. Ngược lại, việc cho phép áp dụng luật nước ngoài bao giờ cũng tăng cường và củng cố sự hợp tác về mọi mặt giữa các quốc gia, phát triển sự hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau nhằm thiết lập một trật tự pháp lý ổn định trên thế giới.

     Hiện nay, vẫn còn ở một vài nước trên thế giới đặt vấn đề áp dụng luật nước ngoài đòi hỏi phải trên nguyên tắc có đi có lại.

     Ví dụ: Điều 25 Bộ luật dân sự của Đức năm 1988 ghi nhận: “… Đức sẽ áp dụng biện pháp trả đũa nếu nước ngoài không áp dụng luật của Đức để giải quyết vấn đề thừa kế của công dân Đức ở đó” Có lẽ đây chỉ là một trong những trường hợp ngoại lệ.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: tư pháp quốc tế, cách giải quyết xung đột

Dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến pháp luật của nước thứ ba

(Renvoi au Premier derge – renvoi I và Renvoi au Second derge – renvoi II)

Một trong những vấn đề rất phức tạp trong việc áp dụng quy phạm xung đột đó là vấn đề dẫn chiếu ngược.

Trong khoa học Tư pháp quốc tế vấn đề dẫn chiếu đến luật pháp nước ngoài hiện nay có hai quan điểm:

- Nếu hiểu dẫn chiếu đến luật pháp nước ngoài là dẫn chiếu chỉ đến các quy phạm pháp luật thực chất củạ nước đó thì sẽ loại trừ vấn đề dẫn chiếu ngược. Nói cách khác là không bao giờ xảy ra dẫn chiếu ngược và luật thực chất của nước được dẫn chiếu đến sẽ được áp dụng.

- Nếu hiểu dẫn chiếu đến luật pháp nước ngoài là dẫn chiếu đến toàn bộ hệ thống luật pháp của nước đó (kể cả luật thực chất, cả luật xung đột) thì có nghĩa là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại, cũng như dẫn chiếu đến luật pháp của nước thứ ba.

Ví dụ: Một nam công dân Anh cư trú tại Việt Nam và xin kết hôn với một nữ công dân Việt Nam tại Việt Nam.

dẫn chiếu đến pháp luật

Theo Điều 103 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000 có ghi: “Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn”.

Chiếu theo điều trên đây cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn của Việt Nam sẽ phải áp dụng luật như sau:

- Công dân nữ Việt Nam phải tuân theo các điều kiện kết hôn quy định trong luật hôn nhân gia đình Việt Nam.

- Công dân nam của Anh phải tuân thủ luật của Anh, song luật xung đột của Anh lại quy định: Điều kiện kết hôn của công dân Anh ở nước ngoài phải tuân theo luật của nước nơi công dân đó cư trú. Như vậy, ở đây luật Việt Nam đã dẫn chiếu tới luật của Anh và luật của Anh đã lại dẫn chiếu ngược trở lại luật của Việt Nam.

Căn cứ vào khoản 3 Điều 759 Bộ luật dân sự Việt Nam quy định: “… Trường hợp pháp luật nước đó dẫn chiếu trở lại pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì áp dụng pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Để giải quyết điều kiện kết hôn của nam công dận Anh ở trường hợp trên đây thì luật Việt Nam sẽ được áp dụng đối với họ.

Như vậy, quan điểm rất rõ của Việt Nam về vấn đề này là chấp nhận dẫn chiếu ngược trở lại.

Phát triển tiếp ví dụ trên đây, nếu chúng ta giả sử nam công dân Anh lại cư trú ở Trung Quốc trong trường hợp này thì giải quyết thế nào? Rõ ràng là luật Việt Nam sẽ dẫn chiếu tới pháp luật của Anh và Pháp luật của Anh sẽ lại dẫn chiếu tới pháp luật Trung Quốc và nếu Việt Nam đã chấp nhận dẫn chiếu ngược thì cũng đồng nghĩa với việc chấp nhận dẫn chiếu đến luật pháp nước thứ ba (luật pháp nước thứ ba ở đây là luật pháp Trung Quốc).

Khi các quốc gia ký kết với nhau các hiệp định song phương và đa phương (thường là các hiệp định tương trợ tư pháp) trong đó quy định các quy phạm xung đột thống nhất thì các quy phạm xung đột thống nhất sẽ được ưu tiên áp dụng (xem lý luận về Điều ước quốc tế và Công ước viên 1969 về Điều ước quốc tế) và trong trường hợp này có thể nói vấn đề dẫn chiếu ngược và dẫn chiếu đến luật pháp của nước thứ ba sẽ không còn nữa.


Đọc thêm tại:

Vấn đề lẩn tránh pháp luật

     Như chúng ta đã thấy, Pháp luật ở các nước khác nhau thì khác nhau; do đó có khả năng là đối với một quan hệ pháp luật nếu giải quyết ở nước này thì bất lợi cho đương sự, còn nếu được giải quyết ở nước khác thì có lợi hơn cho đương sự. Đây là một thực tiễn khách quan và là “cơ hội tốt” cho việc lẩn tránh pháp luật phát sinh, nảy nở.

     Lẩn tránh pháp luật là hiện tượng đương sự dùng những biên pháp cùng thủ đoan để thoát khỏi hê thống pháp luật đáng nhẽ phải đươc áp dụng để điều chỉnh các quan hệ của họ và nhằm tới một hệ thống pháp luật khác có lớn hơn cho mình. Các biện pháp và thủ đoạn thể hiện như: di chuyển trụ sở, thay đổi nơi cư trú, thay đổi quốc tịch, chuyển động sản thành bất động sản hoặc ngược lại từ nước này sang nước khác V.V..

     Hầu hết thực tiễn tư pháp của các nước trên thế giới đều coi, đây là một hiên tượng không bình thường và đều tìm cách hạn chế hoặc ngăn cấm. Việc quy định hạn chế hoặc ngăn cấm ở mỗi nước là khác nhau bằng các biện pháp cũng khác nhau. Nhưng để phân biệt được giữa lẩn tránh pháp luật và đâu là không phải là lẩn tránh pháp luật là rất khó. Chúng ta xem xét một vài ví dụ để thấy rõ hơn:

     Hàng loạt các doanh nghiệp thương mại buồn bán ở New York lại đăng ký pháp nhân ở các bang khác vì điều kiện đăng ký ở đó rất dễ dàng và thuận lợi, lệ phí lại không đáng kể.

lẩn tránh pháp luật

     Để đỡ tốn kém và thoát khỏi nộp lệ phí nặng nể ở Anh khi thành lập pháp nhân, các công ty đã đặt trụ sở điều hành của công ty ở Thụy Sỹ, Lũcxămbua và các nước khác, nơi mức lệ phí thành lập công ty ít hơn nhiều so với ở Anh; sau đó các công ty này quay trở lại Anh kinh doanh với danh nghĩa là công ty nước ngoài.

     Một cặp vợ chồng xin ly hôn ở nước này không được vì các điều kiện cấm ly hôn, họ chạy sang một nước khác, nơi mà ở đó điều kiện ly hôn dễ dàng hơn để được phép ly hôn.

     Thực tiễn tư pháp ở Pháp cho thấy tòa án không chấp nhận việc lẩn tránh pháp luật của Pháp và ở đó đã trở thành nguyên tắc pháp luật là mọi hành vi, mọi hợp đồng ký kết mà lẩn tránh pháp luật đểu bị coi là bất hợp pháp (Fraus omnia corrumpit).

     Ở Anh – Mỹ nếu các hợp đồng giữa các bên ký kết mà lẩn tránh phầp luật của các nước này thì sẽ bị tòa án hủy bỏ (như vậy ở Anh – Mỹ áp dụng nguyên tắc locus regit actum)

     Ở các nước phương Tây đều hạn chế hoặc cấm các hành vi lẩn tránh pháp luật, song việc giải quyết hậu quả của việc lẩn tránh pháp luật lại khác nhau. Do đó cùng không hiếm các trượng hợp ‘Lọt lưới” hoặc lại được công nhận. Ví dụ: các trường hợp các công ty đăng ký điều lộ hoặc đặt trụ sở điều hành ở một nước mà lệ phí thấp sau đó sang hoạt động ở nước khác thì hầu như đều được coi là hợp pháp.

     Ở Việt Nam, mọi hành vi lẩn tránh pháp luật là vi phạm và không được chấp nhận. Thực tiễn ở nước ta về lẩn tránh pháp luật hầu như chưa có, nhưng trong một số văn bản pháp quy lại có quy định rất rõ. Ví dụ: Khoản 1 Điều 20 Nghị định của Chính phủ số 68/NĐ-CP ngày 10/7/2002 quy định chi tiết một số điều của Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam về quan hệ hôn nhân – gia đình có yếu tố nước ngoài.

     Ở các nước khác như Nga, Điều 48 Bộ luật dân sự Cộng hòa liên bang Nga ghi: “Các hợp đồng ký kết nhằm lẩn tránh pháp luật bị coi là vô hiệu”.



Vấn đề bảo lưu trật tự công cộng

     Khái niệm “trật tự công cộng” (Public Policy) ở các nước phương Tây trong thực tiễn xét xử cũng như trong các học thuyết, quan điểm là không đồng nhất và ổn định giữa các nước với nhau; thậm chí không ít các nhà luật học phương Tây còn khẳng định tính chất không ổn định (luôn thay đổi) là đặc thù cơ bản của khái niệm này.

      Điều này cho thấy ở các nước này khái niệm “trật tự công cộng ” được sử dụng khá tùy tiện và hậu quả của nó trên thực tế giống như “những điều khoản cao su”.

     Với lý do, nếu việc áp dụng luật nước ngoài mà gây ra hâu qủa xấu làm ảnh hưởng đến “đao đức” “thuần phong mỹ tục” sẽ không được áp dụng đã dược hình thành từ thế kỷ XIV nhưng được hình thành như một trường phái khoa học pháp lý thì lần đầu tiên nó được xuất hiện ở Pháp với khái niệm “Trật tự công cộng” (ordre Public inteme). Điều 6 Bộ luật dân sự của Pháp có quy định rằng: “Những thóa thuận tư không thể làm thay đổi hiệu lực của những đạo luật công mà trong đó quy định trật tự công cộng và đạo lý”.Sau này thực tiễn thi hành pháp luật ở Pháp đã chứng tỏ rằng “các luật thuộc lĩnh vực trật tự công cộng”loại trừ việc áp dụng luật nước ngoài, cho dù quy phạm xung đột dẫn chiếu tới nó. Như vậy, trật tự công cộng hiển nhiên đã hạn chế hiệu lực của quy phạm xung đột và ở Pháp người ta gọi nó là “trật tự công cộng quốc tế”(ordre Public intemational).

     Ở Đức, trong lý luận cũng như thực tiễn tư pháp đều nhìn nhận “trật tự công cộng”là những điều khoản cao su để tạo khả năng và cơ hội cho tòa án và các cơ quan tư pháp có thẩm quyền khác có quyền lúc thì nói rộng, lúc thì thu hệp hiệu lực quy phạm xung đột của mình lại với mục đích bảo đảm lợi ích của giai cấp thống trị trong các tình huống quan hệ quốc tế cụ thể.

     Ở Anh – Mỹ, quan điểm thống trị trong thực tiễn cũng như trong khoa học pháp lý về trật tự công cộng là tòa án không buộc phải thực thi (áp dụng) và công nhận luật hoặc hạn chế luật nước ngoài mà luật nước ngoài đó được quy phạm xung đột luật của Anh hoặc Mỹ dẫn chiến tới, nếu như việc buộc phải thực thi hoặc công nhận đó không phù hợp với “trật tự công cộng” ở các nước này. Trên thực tế, việc phải viện dẫn “trật tự công cộng” trong tòa án của Anh để gạt bỏ không áp dụng luật nước ngoài là rất hiếm, có thể nói là ít hơn nhiều so với trong tòa án của các nước Châu Âu lục địa. Điều này có thể giải thích một cách đơn giản là luật xung đột của Anh rất ít khi viện dẫn tới việc cần thiết phải áp dụng luật nước ngoài và tất nhiên Hệ thuộc luật tòa án (Lex fori) được sử dụng trong rất nhiều phạm vi quan hệ, đối với nhiều lĩnh vực.

bảo lưu trật tự công cộng

     Ở Viêt Nam, quy định về “Bảo lưu trât tư côm công” đươc ghi nhận rất rõ ràng trong Điều 75.9-Bô luật dân sự năm 2005 khoản 4 “… nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng dó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.Ở đây, rõ ràng “trật tự công cộng” phải hiểu là hệ thống các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và chúng được quy định trong Hiến pháp Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 1992 và các văn bản pháp luật khác.

     Ngoài ra, vấn đề “Bảo lưu trật tự công cộng” còn được ghi nhận ở một số văn bản pháp luật khác của Việt Nam. Ví dụ, Điều 101 Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam quy định: “Trong trường hợp luật này, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam có quy định hoặc điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia viện dẫn thì pháp luật nước ngoài được áp dụng, nếu việc áp dụng đó không trái với nguyên tắc quy định trong Luật này”.

     Ngoài ra, vấn đề “Bảo lưu trật tự công cộng” còn được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết. Ví dụ: Điều 5 Công ước New York 1958 về công nhận và thực hiện các quyết định của trọng tài nước ngoài; Điều 7 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Liên bang Nga năm 1998; Điều 12 Hiệp định tương trợ tư pháp Việt Nam – Ba Lan năm 1993 và V.V..

     Các cơ quan tư pháp và cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở nước ta phải rất cẩn trọng trọng viêc vận dung nguyên tắc bảo lưu trật tự công cộng, song thực tiễn tư pháp cho thấy là rất hiếm các trường hợp phải vận dụng và trong trường hợp phải bắt buộc vận dụng bao giờ cũng dựa trên những cơ sở pháp lý đứng đắn và khách quan, bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: luật công pháp quốc tế, xung dot phap luat